Ba ngày trước khi Lã Bất Vi thống lĩnh đại quân chinh phạt Đông Châu, đoàn sứ tiết do Hạng Thiếu Long dẫn đầu cùng một đoàn quân tinh nhuệ rời Hàm Dương, vượt qua sông Hoàng Hà, bắt đầu cho chuyến đi.
Ngoài bọn người Kỷ Yên Nhiên, Ô Đình Phương, Triệu Thiên và Đằng Dực, Kinh Tuấn, những huynh đệ trong Ô gia đi theo chỉ có hai mươi người, nhưng người nào cũng thân thủ cao cường, nhân số thì ít nhưng thực lực không thể xem thường.
Phía Lã Bất Vi trừ Lý Tư và Tiêu Nguyệt Đàm, còn chọn ra ba trăm tên gia tướng, những người này trực tiếp nghe lệnh Tiêu Nguyệt Đàm, cũng may sao những người ấy và Hạng Thiếu Long quan hệ rất tốt, nên bọn họ cũng rất nghe lời gã.
Đương nhiên còn có hai vị công tử của Mông Ngao là Mông Võ và Mông Điềm, hai người tuổi tác tuy nhỏ, nhưng rất ngưỡng mộ Hạng Thiếu Long, bọn Đằng Dực đều thương yêu bọn chúng.
Kẻ phụ trách lãnh quân là một viên tướng tên Lã Hùng, là người trong tộc Lã Bất Vi, bề ngoài tuy có vẻ cung kính với Hạng Thiếu Long, nhưng nhãn thần sáng quắc, ấn tượng của Hạng Thiếu Long đối với y không tốt lắm. Nhưng giờ đây đã ngồi chung thuyền, chỉ đành vờ vịt với nhau mà thôi.
So với chuyến đi Triệu lần trước, nhân số tuy tăng hơn nhiều, nhưng bọn Hạng Đằng, cảm thấy thực lực không như trước.
Hôm ấy đã vào biên giới nước Hàn, đã đến bờ Tây sông Lạc Thủy.
Dòng nước đang uốn khúc chảy về đông, núi non nhấp nhô, cảnh đẹp mê người.
Từ tối hôm qua trở đi, mưa tuyết đã dừng được năm ngày thì lại bắt đầu thổi, ai nấy cũng đều mặc áo lông, bọn Kỷ Yên Nhiên trong bộ áo lông trắng như tuyết.
Bọn họ vì được cùng lên đường nên rất vui vẻ, cười nói huyên thuyên, bốn ả nô tỳ Xuân Doanh cũng đi theo phía sau.
Dọc đường, Lý Tư đều phải ở trong trại của Lã phủ, để tránh bọn Tiêu Nguyệt Đàm thấy được mối quan hệ giữa y và Hạng Thiếu Long. Cho đến lúc hoàng hôn, bọn họ hạ trại ở bờ sông Lạc Thủy, chuẩn bị sáng sớm mai vượt sông.
Lã Hùng phái hơn một trăm người chặt cây làm bè, tiếng chặt cây bôm bốp vang lên ở một góc rừng.
Nhân lúc bọn nữ nhân đang đứng nhìn hạ trại, Hạng Thiếu Long và Đằng Dực dạo bước ven sông.
Dù thời tiết lạnh, dòng Lạc Thủy vẫn chưa kết băng, trời lạnh khí ấm, hơi nước từ mặt sông bốc lên đọng lại trên những cành cây ngọc cỏ ven bờ.
Trước cảnh đẹp ấy, hai người đều không muốn nói chuyện.
Tuyết kêu rào rạo dưới chân, trên đầu thì hoa tuyết bay lất phất. Trong rừng toàn là tuyết, khiến ai cũng như thoát tục quên đi nỗi buồn.
Bất giác, bọn họ đã bước đến phần thượng du của sông.
Tiếng bước chân truyền đến, hai người quay đầu lại nhìn, thì ra Lý Tư cũng đội tuyết đi theo.
Hạng Thiếu Long và Đằng Dực nhìn nhau, đều biết Lý Tư đến tìm họ không chỉ để nói chuyện phiếm.
Đằng Dực cười nói: “Lạnh không?”
Lý Tư hai tay cho vào áo, há mồm thở ra hai luồng khí trắng, đến bên cạnh Hạng Thiếu Long, nhìn lên bầu trời đầy tuyết, quay đầu nhìn lại rừng tùng nói: “Loại cây tùng này sau khi gia công có thể tránh được mối mọt, là nguyên liệu gỗ tốt để dựng nhà và làm các đồ dùng trong nhà, trong đó lại có chứa dầu nhẹ, có thể đốt đèn”.
Đằng Dực ngạc nhiên hỏi: “Ta xuất thân từ chốn sơn lâm, biết nhiều lợi cây, không ngờ Lý huynh cũng là người trong nghề”.
Lý Tư cười nói: “Đi vạn dặm đường không bằng đọc vạn quyển sách, ta từ nhỏ đã thích đi đây đó du học, kết giao bạn bè, học được rất nhiều điều, Đằng huynh xin đừng chê cười”.
Hạng Thiếu Long nghe lời nói của gã nhã nhặn, kiến thức lại rộng rãi, trong lòng phục lắm, thầm nghĩ chả trách nào y có thể giúp Tiểu Bàn thống nhất thiên hạ, vỗ nhẹ vai y rồi nói: “Chúng ta đi rồi hãy nói!”
Ba người đi men theo bờ sông.
Đằng Dực chỉ lớp tuyết tụ lại trên cành cây nói: “Khi mặt trời lên cao, tuyết trên cây sẽ biến thành những bông hoa rơi xuống, đó chính là cảnh đẹp hiếm thấy”.
Hạng Thiếu Long thấy Lý Tư hình như không nghe, trầm ngâm, biết y có chuyện muốn nói, chân thành nói: “Đã là huynh đệ cả rồi, Lý huynh có chuyện gì muốn nói, xin hãy cứ yên tâm mà nói ra!”
Lý Tư mỉm cười nói: “Hai vị đại ca đều là những người có kiến thức cao minh, đối với chuyện hưng suy của sáu nước, không biết có ý kiến gì?”
Đằng Dực cười nói: “Lý huynh là người có tài học bao trùm thiên hạ, hay là Lý huynh hãy nhắc nhở cho hai kẻ thô kệch chúng tôi!”
Lý Tư vội vàng nói mấy lời khiêm nhường: “Hai vị đại ca đừng chê cười, tiểu đệ đây thường ngày rất thích suy nghĩ vẩn vơ, nhưng có một chuyện vẫn nghĩ mãi không thông, hiện nay sáu nước Tề, Sở, Yên, Triệu, Ngụy, Hàn, ngoại trừ nước Hàn lâu nay vẫn đi sau các nước khác, còn những nước khác đều là những nước đã từng mạnh một thời, nhân tài lại nhiều, không biết tại sao không thể thống nhất thiên hạ?”
Hạng Đằng hai người đều giật mình, đạo lý ấy xem ra có vẻ đơn giản, đánh không lại người thì dĩ nhiên khó mà xưng bá, nhưng muốn có một đáp án chính xác nhất, lại không thể biết nói từ đâu.
Lý Tư ngừng lại, nhìn dòng nước đang cuồn cuộn chảy, vẻ mặt như đang hồi tưởng về một điều gì đó: “Vào một buổi hoàng hôn của ba năm trước, tại hạ đã nhìn thấy một cảnh lạ ở biên giới hai nước Tề Ngụy, trong một chiếc giếng khô, một bầy ếch xanh không biết vì lẽ gì mà quyết đấu với nhau, trong đó có mấy con mạnh khỏe nhất, đánh mãi mà không thắng, những con yếu thì lần lần chết đi, cuối cùng những con mạnh đó tiếp tục đánh nhau, cuối cùng thì đều bị thương, con thắng lợi cuối cùng thì bị mất máu quá nhiều mà chết. Thế là đã vỡ lẽ ra hiểu được sáu nước hiện nay cũng giống như bầy ếch trong giếng khô ấy, đánh mãi không thôi, tất cả đều thất bại mà chết, lúc này mới nghĩ tới nước Tần quả thật rất may mắn, lúc ấy trong lòng tại hạ nghĩ, chỉ có nước Tần, con ếch xanh đang ngồi xem cuộc chiến, mới trở thành kẻ thắng lợi cuối cùng”.
Hai người gật đầu lia lịa, ví dụ sinh động này đã chỉ ra lý do tại sao nước Tần phát triển sau mà có thể tiến lên phía trước, bức hiếp được các nước khác, bởi chính vì nước Tần nằm ở phía Tây, không chịu sự tàn phá của chiến tranh.
Lý Tư trước giờ chưa có cơ hội biểu hiện tài hoa của mình, nói tiếp với vẻ đầy hứng khởi: “Trong sáu nước, nước có điều kiện xưng bá nhất là Sở, Sở nằm ở phía Nam, đất đai phì nhiêu, từ khi Huệ vương diệt các nước Trần, Thái, Kỷ, Cử, đất đai được mở rộng, nhưng cũng chính vì tài nguyên phong phú, cuộc sống an nhàn, dân tình ngày trở nên lười nhác, tuy mang tiếng giàu có nhưng chỉ có vẻ ngoài mà thôi, binh lực tuy đông nhưng ít huấn luyện, nên không thể chịu đựng được cuộc chiến đấu gian khổ”.
Đằng Dực gật đầu đồng ý nói: “Lý huynh nói phải, người Sở quả thật rất ngang ngược tự đại, các đời vua đều không màng đến triều chính, khiến cho quần thần đấu tranh với nhau, hoặc vu vạ lẫn nhau, khiến cho lòng dân ly tán”.
Hạng Thiếu Long nhớ lại Lý Viên và Xuân Thân quân, bất đồ thở dài.
Lý Tư nói tiếp: “Nếu chỉ lấy binh mà luận, trong sáu nước, nước có hy vọng nhất vẫn là người Triệu, đất đai rộng đến hai ngàn dặm, binh sĩ cũng được mấy chục vạn, có hơn ngàn chiếc xe, vạn thớt ngựa, Tây có Thường Sơn, Nam có Hà Trương, Đông có Thanh Hà, Bắc có Yên quốc. Cho đến thời Triệu Vũ Linh vương, không câu nệ tiểu tiết mà dám thay đổi, mặc Hồ phục, sử dụng xạ kỵ, trong thiên hạ không ai địch lại, nhưng từ đó về sau lại thiếu minh quân, tuy có Liêm Pha, Lý Mục nhưng cuối cùng cũng thất bại ở Trường Bình, từ đó không gượng dậy nổi, thật đáng làm cho người ta tiếc nuối, cũng giống như bầy ếch trong giếng kia, dù mạnh đến cỡ nào, chỉ có một vết thương chảy máu mãi mãi không thôi thì có thể dẫn đến mất mạng”.
Hai người Hạng Đằng đều lấy làm lạ, chả lẽ chỉ để phát biểu những lời này hay sao?
Đằng Dực nói: “Người Hàn lâu nay yếu ớt, người Yên phía Bắc gặp Hung Nô, phía sau lại có Sở, hiện giờ tuy có Thái tử Đan, nhưng cũng khó mà làm nên chuyện. Chỉ còn lại hai nước Ngụy, Tề, nước Ngụy thì có Tín Lăng quân, nước Tề thì có Điền Đan, đều là những nhân tài hiếm có, Lý huynh có ý kiến gì?”
Lý Tư cười nói: “Mạnh lắm cũng chẳng qua là hai con ếch bị thương mà thôi!”
Dừng một lát rồi bình thản nói tiếp: “Tín Lăng quân thì làm mếch lòng Ngụy vương, có sức mà khó thi triển, Điền Đan thì không được lòng người Tề”.
Hạng Thiếu Long nhớ lại y đã từng bái Tuân Tử ở nước Tề làm thầy, một ý nghĩ thoáng qua, nói: “Xin được nghe kỹ hơn!”
Lý Tư chắp tay sau lưng, bước tiến về phía trước.
Hạng Đằng hai người nhìn nhau, đều cảm thấy vị văn sĩ không gặp thời này như trở thành một người khác, có khí khái bao trùm thiên hạ vội vàng bước theo hai bên.
Lý Tư hoàn toàn không biết mình đã trở thành nhân vật chính, ngửa đầu, hít một hơi sâu rồi nói: “Người Tề là kẻ thích nói suông nhất, nói thật lòng, tại hạ cũng bị nhiễm thói ấy. Tắc Hạ học sĩ có hơn ngàn người, muốn họ phê bình chính trị, nói chuyện học vấn, thiên hạ không ai bằng, nhưng nói đến ra chiến trận, không ai có hứng thú vào bản lĩnh ấy, Điền Đan tuy gặp thời, xoay chuyển được tình thế, nhưng đó là chuyện đã qua, với những kẻ thích nói suông ấy, chẳng ai nhắc đến chuyện tranh bá”.
Rồi quay sang Hạng Thiếu Long nói: “Thái phó lần này đi sứ các nước, mục đích là hóa giải thế hợp tung của bọn họ, nếu bắt đầu từ nước Tề thì khả năng thành công sẽ cao hơn, chỉ cần người Tề co rút lại, người Sở cũng không dám động đến can qua, Tề Sở đã rũ tay áo đứng nhìn, người Triệu và Yên thì đang đánh nhau liên miên, nước Ngụy thì còn có thể làm gì nữa?”
Hạng, Đằng lúc này mới vỡ lẽ ra, hiểu được mục đích thật sự mà Lý Tư nói những lời này, chính là chỉ ra mục tiêu đầu tiên của chuyến đi lần này, không phải là nước Ngụy mà là nước Tề.
Bọn họ tuy nóng lòng muốn gặp gỡ Triệu Nhã và Triệu Chi, nhưng sự việc trọng đại đành phải tạm gác tình riêng qua một bên, chắc không có gì trở ngại lớn.
Nhưng thay đổi thế này cần phải sắp xếp lại các mặt mới xong.
Hạng Thiếu Long chép miệng nói: “Lý huynh thật là kiến thức cao minh, Hạng mỗ có cảm giác như được hiểu thông tất cả mọi điều, bây giờ chúng ta hãy chuyển đường sang Tề, sau đó đến Sở để hoàn thành sứ mệnh của Đại vương giao phó”.
Ba người lại bàn bạc thêm về tình hình của nước Tề rồi mới quay về doanh trại.
Hạng Thiếu Long lập tức mời Tiêu Nguyệt Đàm và Lã Hùng đến trại chủ soái, nói về chuyện đổi đường sang Tề, nhưng cố ý không giải thích lý do.
Tiêu Nguyệt Đàm trầm ngâm nói: “Đã là như thế, ta lập tức sai người đến Tề giao văn điệp cho họ biết chuyện này, nhưng nước Triệu khác với Hàn, chúng ta phải vào chào hỏi để mượn đường mà đi, nhưng qua cửa mà không vào, tất sẽ gây mích lòng với người Triệu”.
Lời này cũng hợp tình hợp lý, Hạng Thiếu Long quyết định thay đổi lộ trình, nhất thời không có thời gian nghĩ đến chuyện chu toàn như thế, nghe vậy thì lo lắng trong lòng lắm, khó mà quyết định được.
Giờ đây Triệu, Tề xích mích với nhau, nếu gã lôi kéo nước Tề, không thèm để ý đến người Triệu, nói không chừng Tinh vương hậu bực mình phái Lý Mục đến đối phó bọn họ thì hỏng bét.
Lã Hùng hơi biến sắc nói: “Lã tướng đã chỉ thị, nơi đến đầu tiên chính là Đại Lương, kinh đô nước Ngụy, hành trình đã được sắp xếp ổn thỏa trước cả, Thái phó nói đổi là đổi, e rằng sẽ ảnh hưởng đến sách lược và quân tâm. Vả lại con đường phía trước hung hiểm khó đoán, phải chăng Thái phó nên bỏ đi ý nghĩ này?”
Không biết có phải vì quá nhạy cảm hay không Hạng Thiếu Long lờ mờ cảm thấy có điều không ổn, nhất thời không nói ra được, trầm ngâm im lặng.
Tiêu Nguyệt Đàm thì đứng về phía gã, nói: “Lã tướng quân e rằng đã hiểu sai ý của tướng gia rồi, tướng gia đã từng dặn dò Tiêu mỗ, sau khi rời Hàm Dương, tất cả đều do Thái phó quyết định, Thái phó đổi đường đến Tề tất có thâm ý, Lã tướng quân hãy nghiên cứu xem sắp xếp thế nào mới ổn thỏa đây!”
Bọn Hạng Đằng hai người đều ngạc nhiên, không ngờ Tiêu Nguyệt Đàm không hề nể mặt Lã Hùng.
Phản ứng của Lã Hùng càng kỳ lạ hơn, ngược lại nói với vẻ cung kính: “Tiểu tướng có hơi hồ đồ, tiểu tướng đi tìm Khuất Đấu Kỳ thương lượng, chờ khi sắp xếp xong thì sẽ báo cáo với Thái phó và Tiêu tiên sinh”.
Nói xong vén rèm bước ra.
Tiêu Nguyệt Đàm nhìn gã rời khỏi, lạnh lùng hừ một tiếng.
Hạng Thiếu Long nén không được hỏi: “Tiêu huynh hình như bất mãn với người này?”
Tiêu Nguyệt Đàm thở dài, lắc đầu nói: “Tiêu mỗ cũng không hiểu với một người tinh minh như Lã gia, tại sao lại để người này phụ trách lãnh quân, đây chỉ là hạng a dua phỉnh nịnh, đức tài không đủ để chế phục người ta, năm xưa khi Tiêu mỗ và Đồ gia bôn tẩu cùng Lã gia, tộc người họ Lã bọn chúng không biết nấp ở chốn nào, giờ đây Lã gia ngồi lên ghế tướng quốc, bọn chúng lại kéo nhau đến, tướng gia lại trọng dụng bọn chúng”.
Hạng Thiếu Long lúc này mới hiểu quan hệ của bọn họ.
Như thế có thể thấy, dưới tay Lã Bất Vi cũng chia thành hai phe phái, một bên là phe phái gia tướng do Đồ Tiên và Tiêu Nguyệt Đàm đứng đầu, bên kia là phe phái của những người trong tộc của Lã Bất Vi bao gồm cả Lã Hùng trong đó. Vì quyền lực mà tranh đấu lẫn nhau.
Khuất Đấu Kỳ, người mà Lã Hùng vừa nhắc đến là một tên thiên tướng, bản thân tuy là người Tần, nhưng là tâm phúc dưới tay Mông Ngao, nhưng uy vọng thì hơn hẳn Lã Hùng.
Những cuộc tranh giành quyền lực đâu đâu cũng có.
Chỉ trong một đoàn sứ tiết nhỏ nhoi có hơn ngàn người này mà tình hình cũng đã rất phức tạp.
Tiêu Nguyệt Đàm hạ giọng nói: “Thiếu Long cớ gì đột nhiên thay đổi lộ trình? Phải chăng sợ Dương Tuyền quân cấu kết với người Hàn, phục kích chúng ta trên đường?”
Hạng Thiếu Long không hề nghĩ đến những vấn đề ở mặt này, cũng biết cuộc nói chuyện bí mật vừa rồi với Lý Tư khiến cho y cảm thấy không thoải mái, thừa cơ nói: “Đây chỉ là một trong những nguyên nhân mà thôi, vừa rồi ta có tìm Lý Tư tiên sinh hỏi y về tình thế nước Tề, sau đó mới phát giác người Tề dễ nói chuyện nhất, nên mới thay đổi chủ ý, quyết định đến nước Tề”.
Tiêu Nguyệt Đàm vui vẻ nói: “Thì ra là như thế, Thiếu Long thật biết dùng người, Lý Tư là kẻ học rộng hiểu nhiều, rõ tình thế của thiên hạ như lòng bàn tay, đáng tiếc làm tướng gia không vui nên vẫn chưa được trọng dụng”.
Rồi mỉm cười nói: “Giờ đây ta mới hiểu Thiếu Long cớ gì chỉ định Lý tiên sinh đi theo”.
Đằng Dực xen vào: “Lã Hùng có đáng tin cậy không?”
Tiêu Nguyệt Đàm thở dài: “Chuyện này rất khó nói, về căn bản thì chẳng có vấn đề gì”.
Ngừng một chốc rồi nói: “Thiếu Long đã là người của chúng ta, ta cũng không e ngại mà nói thẳng ra, việc chọn người đi sứ, đã từng xảy ra tranh cãi, ta và Đồ gia ủng hộ cho Thiếu Long, bọn người trong tộc họ Lã thì chủ trương do Trương Manh, thân đệ của Lã phu nhân đảm trách, chỉ là sau khi tướng gia cân nhắc thì đã nghe theo ý kiến của chúng ta”.
Hạng Thiếu Long thầm nghĩ thà đừng chọn ta thì hay nhất, nhưng giờ đây gạo đã nấu thành cơm, đã vào thế ngồi trên lưng cọp, oán trách chỉ tổ phí sức mà thôi, thở dài rồi cười khổ.
Tiêu Nguyệt Đàm chân thành nói: “Ta và Đồ gia đều biết Thiếu Long coi khinh danh lợi, nhưng hiện giờ chúng ta và bọn người họ Lã do Trương Manh đứng đầu đã đứng vào thế nước với lửa, mong Thiếu Long hãy giúp chúng tôi chống lại bọn chúng”.
Hạng Thiếu Long lúc này mới biết mình đã trở thành người mà phía Đồ Tiên tranh thủ, nên cũng thấy buồn cười.
Ngoài trại bỗng truyền vào tiếng đao kiếm giao nhau và tiếng reo hò, họ cảm thấy ngạc nhiên lắm, cả ba người vén rèm bước ra.
Bãi đất trống trước trại, Kỷ Yên Nhiên đang cùng Mông Điềm dùng mâu đọ chiêu với nhau, trông rất hứng thú.
Còn Ô Đình Phương, Triệu Thiên, Mông Võ, Kinh Tuấn và bọn thân vệ đang đứng một bên reo hò trợ oai.
Kỷ Yên Nhiên đang chiếm được thượng phong, còn Mông Điềm thì đang khó khăn trống đỡ.
Hạng, Đằng đều cảm thấy không ngờ tên tiểu tử mới mười tuổi hơn mà đã ghê gớm đến thế, bất đồ đều đồng thanh khen hay.
Mông Điềm thấy Hạng Thiếu Long đang đứng xem thì vui lắm, đâm liền ba mâu, lấy lại được một ít ưu thế.
Kỷ Yên Nhiên gạt mâu của đối thủ ra, chờ khi đối thủ thất thế thì nàng liền lùi ra, cắp mâu phía sau lưng, cười nói: “Sau này, e rằng Yên Nhiên không phải là đối thủ của Tiểu Điềm nữa!”
Mông Điềm vội vàng thi lễ khiêm nhường, khiến ai nấy đều rất có thiện cảm.
Lúc này Lã Hùng và Khuất Đấu Kỳ bước đến.
Hai người bước tới, đang định nói chuyện thì Hạng Thiếu Long lên tiếng trước, mỉm cười: “Mấy ngày này vẫn chưa có cơ hội nói chuyện với Khuất thiên tướng, mời!”
Rồi xoay người bước vào trong trại.
Khuất Đấu Kỳ hơi ngạc nhiên, bước theo.
Lã Hùng định bước vào thì bị Đằng Dực chặn lại, khách khí nói: “Chuyện Lã tướng quân chuẩn bị đổi đường, chắc đã đâu vào đấy, Thái phó có lệnh, bổn nhân có việc cần thương lượng với tướng quân, hay là hãy vào trại của bổn nhân rồi nói!”
Lã Hùng đành phải bước theo gã.
Chỉ còn lại một mình Tiêu Nguyệt Đàm đang đứng vuốt râu cười.
Ngoài bọn người Kỷ Yên Nhiên, Ô Đình Phương, Triệu Thiên và Đằng Dực, Kinh Tuấn, những huynh đệ trong Ô gia đi theo chỉ có hai mươi người, nhưng người nào cũng thân thủ cao cường, nhân số thì ít nhưng thực lực không thể xem thường.
Phía Lã Bất Vi trừ Lý Tư và Tiêu Nguyệt Đàm, còn chọn ra ba trăm tên gia tướng, những người này trực tiếp nghe lệnh Tiêu Nguyệt Đàm, cũng may sao những người ấy và Hạng Thiếu Long quan hệ rất tốt, nên bọn họ cũng rất nghe lời gã.
Đương nhiên còn có hai vị công tử của Mông Ngao là Mông Võ và Mông Điềm, hai người tuổi tác tuy nhỏ, nhưng rất ngưỡng mộ Hạng Thiếu Long, bọn Đằng Dực đều thương yêu bọn chúng.
Kẻ phụ trách lãnh quân là một viên tướng tên Lã Hùng, là người trong tộc Lã Bất Vi, bề ngoài tuy có vẻ cung kính với Hạng Thiếu Long, nhưng nhãn thần sáng quắc, ấn tượng của Hạng Thiếu Long đối với y không tốt lắm. Nhưng giờ đây đã ngồi chung thuyền, chỉ đành vờ vịt với nhau mà thôi.
So với chuyến đi Triệu lần trước, nhân số tuy tăng hơn nhiều, nhưng bọn Hạng Đằng, cảm thấy thực lực không như trước.
Hôm ấy đã vào biên giới nước Hàn, đã đến bờ Tây sông Lạc Thủy.
Dòng nước đang uốn khúc chảy về đông, núi non nhấp nhô, cảnh đẹp mê người.
Từ tối hôm qua trở đi, mưa tuyết đã dừng được năm ngày thì lại bắt đầu thổi, ai nấy cũng đều mặc áo lông, bọn Kỷ Yên Nhiên trong bộ áo lông trắng như tuyết.
Bọn họ vì được cùng lên đường nên rất vui vẻ, cười nói huyên thuyên, bốn ả nô tỳ Xuân Doanh cũng đi theo phía sau.
Dọc đường, Lý Tư đều phải ở trong trại của Lã phủ, để tránh bọn Tiêu Nguyệt Đàm thấy được mối quan hệ giữa y và Hạng Thiếu Long. Cho đến lúc hoàng hôn, bọn họ hạ trại ở bờ sông Lạc Thủy, chuẩn bị sáng sớm mai vượt sông.
Lã Hùng phái hơn một trăm người chặt cây làm bè, tiếng chặt cây bôm bốp vang lên ở một góc rừng.
Nhân lúc bọn nữ nhân đang đứng nhìn hạ trại, Hạng Thiếu Long và Đằng Dực dạo bước ven sông.
Dù thời tiết lạnh, dòng Lạc Thủy vẫn chưa kết băng, trời lạnh khí ấm, hơi nước từ mặt sông bốc lên đọng lại trên những cành cây ngọc cỏ ven bờ.
Trước cảnh đẹp ấy, hai người đều không muốn nói chuyện.
Tuyết kêu rào rạo dưới chân, trên đầu thì hoa tuyết bay lất phất. Trong rừng toàn là tuyết, khiến ai cũng như thoát tục quên đi nỗi buồn.
Bất giác, bọn họ đã bước đến phần thượng du của sông.
Tiếng bước chân truyền đến, hai người quay đầu lại nhìn, thì ra Lý Tư cũng đội tuyết đi theo.
Hạng Thiếu Long và Đằng Dực nhìn nhau, đều biết Lý Tư đến tìm họ không chỉ để nói chuyện phiếm.
Đằng Dực cười nói: “Lạnh không?”
Lý Tư hai tay cho vào áo, há mồm thở ra hai luồng khí trắng, đến bên cạnh Hạng Thiếu Long, nhìn lên bầu trời đầy tuyết, quay đầu nhìn lại rừng tùng nói: “Loại cây tùng này sau khi gia công có thể tránh được mối mọt, là nguyên liệu gỗ tốt để dựng nhà và làm các đồ dùng trong nhà, trong đó lại có chứa dầu nhẹ, có thể đốt đèn”.
Đằng Dực ngạc nhiên hỏi: “Ta xuất thân từ chốn sơn lâm, biết nhiều lợi cây, không ngờ Lý huynh cũng là người trong nghề”.
Lý Tư cười nói: “Đi vạn dặm đường không bằng đọc vạn quyển sách, ta từ nhỏ đã thích đi đây đó du học, kết giao bạn bè, học được rất nhiều điều, Đằng huynh xin đừng chê cười”.
Hạng Thiếu Long nghe lời nói của gã nhã nhặn, kiến thức lại rộng rãi, trong lòng phục lắm, thầm nghĩ chả trách nào y có thể giúp Tiểu Bàn thống nhất thiên hạ, vỗ nhẹ vai y rồi nói: “Chúng ta đi rồi hãy nói!”
Ba người đi men theo bờ sông.
Đằng Dực chỉ lớp tuyết tụ lại trên cành cây nói: “Khi mặt trời lên cao, tuyết trên cây sẽ biến thành những bông hoa rơi xuống, đó chính là cảnh đẹp hiếm thấy”.
Hạng Thiếu Long thấy Lý Tư hình như không nghe, trầm ngâm, biết y có chuyện muốn nói, chân thành nói: “Đã là huynh đệ cả rồi, Lý huynh có chuyện gì muốn nói, xin hãy cứ yên tâm mà nói ra!”
Lý Tư mỉm cười nói: “Hai vị đại ca đều là những người có kiến thức cao minh, đối với chuyện hưng suy của sáu nước, không biết có ý kiến gì?”
Đằng Dực cười nói: “Lý huynh là người có tài học bao trùm thiên hạ, hay là Lý huynh hãy nhắc nhở cho hai kẻ thô kệch chúng tôi!”
Lý Tư vội vàng nói mấy lời khiêm nhường: “Hai vị đại ca đừng chê cười, tiểu đệ đây thường ngày rất thích suy nghĩ vẩn vơ, nhưng có một chuyện vẫn nghĩ mãi không thông, hiện nay sáu nước Tề, Sở, Yên, Triệu, Ngụy, Hàn, ngoại trừ nước Hàn lâu nay vẫn đi sau các nước khác, còn những nước khác đều là những nước đã từng mạnh một thời, nhân tài lại nhiều, không biết tại sao không thể thống nhất thiên hạ?”
Hạng Đằng hai người đều giật mình, đạo lý ấy xem ra có vẻ đơn giản, đánh không lại người thì dĩ nhiên khó mà xưng bá, nhưng muốn có một đáp án chính xác nhất, lại không thể biết nói từ đâu.
Lý Tư ngừng lại, nhìn dòng nước đang cuồn cuộn chảy, vẻ mặt như đang hồi tưởng về một điều gì đó: “Vào một buổi hoàng hôn của ba năm trước, tại hạ đã nhìn thấy một cảnh lạ ở biên giới hai nước Tề Ngụy, trong một chiếc giếng khô, một bầy ếch xanh không biết vì lẽ gì mà quyết đấu với nhau, trong đó có mấy con mạnh khỏe nhất, đánh mãi mà không thắng, những con yếu thì lần lần chết đi, cuối cùng những con mạnh đó tiếp tục đánh nhau, cuối cùng thì đều bị thương, con thắng lợi cuối cùng thì bị mất máu quá nhiều mà chết. Thế là đã vỡ lẽ ra hiểu được sáu nước hiện nay cũng giống như bầy ếch trong giếng khô ấy, đánh mãi không thôi, tất cả đều thất bại mà chết, lúc này mới nghĩ tới nước Tần quả thật rất may mắn, lúc ấy trong lòng tại hạ nghĩ, chỉ có nước Tần, con ếch xanh đang ngồi xem cuộc chiến, mới trở thành kẻ thắng lợi cuối cùng”.
Hai người gật đầu lia lịa, ví dụ sinh động này đã chỉ ra lý do tại sao nước Tần phát triển sau mà có thể tiến lên phía trước, bức hiếp được các nước khác, bởi chính vì nước Tần nằm ở phía Tây, không chịu sự tàn phá của chiến tranh.
Lý Tư trước giờ chưa có cơ hội biểu hiện tài hoa của mình, nói tiếp với vẻ đầy hứng khởi: “Trong sáu nước, nước có điều kiện xưng bá nhất là Sở, Sở nằm ở phía Nam, đất đai phì nhiêu, từ khi Huệ vương diệt các nước Trần, Thái, Kỷ, Cử, đất đai được mở rộng, nhưng cũng chính vì tài nguyên phong phú, cuộc sống an nhàn, dân tình ngày trở nên lười nhác, tuy mang tiếng giàu có nhưng chỉ có vẻ ngoài mà thôi, binh lực tuy đông nhưng ít huấn luyện, nên không thể chịu đựng được cuộc chiến đấu gian khổ”.
Đằng Dực gật đầu đồng ý nói: “Lý huynh nói phải, người Sở quả thật rất ngang ngược tự đại, các đời vua đều không màng đến triều chính, khiến cho quần thần đấu tranh với nhau, hoặc vu vạ lẫn nhau, khiến cho lòng dân ly tán”.
Hạng Thiếu Long nhớ lại Lý Viên và Xuân Thân quân, bất đồ thở dài.
Lý Tư nói tiếp: “Nếu chỉ lấy binh mà luận, trong sáu nước, nước có hy vọng nhất vẫn là người Triệu, đất đai rộng đến hai ngàn dặm, binh sĩ cũng được mấy chục vạn, có hơn ngàn chiếc xe, vạn thớt ngựa, Tây có Thường Sơn, Nam có Hà Trương, Đông có Thanh Hà, Bắc có Yên quốc. Cho đến thời Triệu Vũ Linh vương, không câu nệ tiểu tiết mà dám thay đổi, mặc Hồ phục, sử dụng xạ kỵ, trong thiên hạ không ai địch lại, nhưng từ đó về sau lại thiếu minh quân, tuy có Liêm Pha, Lý Mục nhưng cuối cùng cũng thất bại ở Trường Bình, từ đó không gượng dậy nổi, thật đáng làm cho người ta tiếc nuối, cũng giống như bầy ếch trong giếng kia, dù mạnh đến cỡ nào, chỉ có một vết thương chảy máu mãi mãi không thôi thì có thể dẫn đến mất mạng”.
Hai người Hạng Đằng đều lấy làm lạ, chả lẽ chỉ để phát biểu những lời này hay sao?
Đằng Dực nói: “Người Hàn lâu nay yếu ớt, người Yên phía Bắc gặp Hung Nô, phía sau lại có Sở, hiện giờ tuy có Thái tử Đan, nhưng cũng khó mà làm nên chuyện. Chỉ còn lại hai nước Ngụy, Tề, nước Ngụy thì có Tín Lăng quân, nước Tề thì có Điền Đan, đều là những nhân tài hiếm có, Lý huynh có ý kiến gì?”
Lý Tư cười nói: “Mạnh lắm cũng chẳng qua là hai con ếch bị thương mà thôi!”
Dừng một lát rồi bình thản nói tiếp: “Tín Lăng quân thì làm mếch lòng Ngụy vương, có sức mà khó thi triển, Điền Đan thì không được lòng người Tề”.
Hạng Thiếu Long nhớ lại y đã từng bái Tuân Tử ở nước Tề làm thầy, một ý nghĩ thoáng qua, nói: “Xin được nghe kỹ hơn!”
Lý Tư chắp tay sau lưng, bước tiến về phía trước.
Hạng Đằng hai người nhìn nhau, đều cảm thấy vị văn sĩ không gặp thời này như trở thành một người khác, có khí khái bao trùm thiên hạ vội vàng bước theo hai bên.
Lý Tư hoàn toàn không biết mình đã trở thành nhân vật chính, ngửa đầu, hít một hơi sâu rồi nói: “Người Tề là kẻ thích nói suông nhất, nói thật lòng, tại hạ cũng bị nhiễm thói ấy. Tắc Hạ học sĩ có hơn ngàn người, muốn họ phê bình chính trị, nói chuyện học vấn, thiên hạ không ai bằng, nhưng nói đến ra chiến trận, không ai có hứng thú vào bản lĩnh ấy, Điền Đan tuy gặp thời, xoay chuyển được tình thế, nhưng đó là chuyện đã qua, với những kẻ thích nói suông ấy, chẳng ai nhắc đến chuyện tranh bá”.
Rồi quay sang Hạng Thiếu Long nói: “Thái phó lần này đi sứ các nước, mục đích là hóa giải thế hợp tung của bọn họ, nếu bắt đầu từ nước Tề thì khả năng thành công sẽ cao hơn, chỉ cần người Tề co rút lại, người Sở cũng không dám động đến can qua, Tề Sở đã rũ tay áo đứng nhìn, người Triệu và Yên thì đang đánh nhau liên miên, nước Ngụy thì còn có thể làm gì nữa?”
Hạng, Đằng lúc này mới vỡ lẽ ra, hiểu được mục đích thật sự mà Lý Tư nói những lời này, chính là chỉ ra mục tiêu đầu tiên của chuyến đi lần này, không phải là nước Ngụy mà là nước Tề.
Bọn họ tuy nóng lòng muốn gặp gỡ Triệu Nhã và Triệu Chi, nhưng sự việc trọng đại đành phải tạm gác tình riêng qua một bên, chắc không có gì trở ngại lớn.
Nhưng thay đổi thế này cần phải sắp xếp lại các mặt mới xong.
Hạng Thiếu Long chép miệng nói: “Lý huynh thật là kiến thức cao minh, Hạng mỗ có cảm giác như được hiểu thông tất cả mọi điều, bây giờ chúng ta hãy chuyển đường sang Tề, sau đó đến Sở để hoàn thành sứ mệnh của Đại vương giao phó”.
Ba người lại bàn bạc thêm về tình hình của nước Tề rồi mới quay về doanh trại.
Hạng Thiếu Long lập tức mời Tiêu Nguyệt Đàm và Lã Hùng đến trại chủ soái, nói về chuyện đổi đường sang Tề, nhưng cố ý không giải thích lý do.
Tiêu Nguyệt Đàm trầm ngâm nói: “Đã là như thế, ta lập tức sai người đến Tề giao văn điệp cho họ biết chuyện này, nhưng nước Triệu khác với Hàn, chúng ta phải vào chào hỏi để mượn đường mà đi, nhưng qua cửa mà không vào, tất sẽ gây mích lòng với người Triệu”.
Lời này cũng hợp tình hợp lý, Hạng Thiếu Long quyết định thay đổi lộ trình, nhất thời không có thời gian nghĩ đến chuyện chu toàn như thế, nghe vậy thì lo lắng trong lòng lắm, khó mà quyết định được.
Giờ đây Triệu, Tề xích mích với nhau, nếu gã lôi kéo nước Tề, không thèm để ý đến người Triệu, nói không chừng Tinh vương hậu bực mình phái Lý Mục đến đối phó bọn họ thì hỏng bét.
Lã Hùng hơi biến sắc nói: “Lã tướng đã chỉ thị, nơi đến đầu tiên chính là Đại Lương, kinh đô nước Ngụy, hành trình đã được sắp xếp ổn thỏa trước cả, Thái phó nói đổi là đổi, e rằng sẽ ảnh hưởng đến sách lược và quân tâm. Vả lại con đường phía trước hung hiểm khó đoán, phải chăng Thái phó nên bỏ đi ý nghĩ này?”
Không biết có phải vì quá nhạy cảm hay không Hạng Thiếu Long lờ mờ cảm thấy có điều không ổn, nhất thời không nói ra được, trầm ngâm im lặng.
Tiêu Nguyệt Đàm thì đứng về phía gã, nói: “Lã tướng quân e rằng đã hiểu sai ý của tướng gia rồi, tướng gia đã từng dặn dò Tiêu mỗ, sau khi rời Hàm Dương, tất cả đều do Thái phó quyết định, Thái phó đổi đường đến Tề tất có thâm ý, Lã tướng quân hãy nghiên cứu xem sắp xếp thế nào mới ổn thỏa đây!”
Bọn Hạng Đằng hai người đều ngạc nhiên, không ngờ Tiêu Nguyệt Đàm không hề nể mặt Lã Hùng.
Phản ứng của Lã Hùng càng kỳ lạ hơn, ngược lại nói với vẻ cung kính: “Tiểu tướng có hơi hồ đồ, tiểu tướng đi tìm Khuất Đấu Kỳ thương lượng, chờ khi sắp xếp xong thì sẽ báo cáo với Thái phó và Tiêu tiên sinh”.
Nói xong vén rèm bước ra.
Tiêu Nguyệt Đàm nhìn gã rời khỏi, lạnh lùng hừ một tiếng.
Hạng Thiếu Long nén không được hỏi: “Tiêu huynh hình như bất mãn với người này?”
Tiêu Nguyệt Đàm thở dài, lắc đầu nói: “Tiêu mỗ cũng không hiểu với một người tinh minh như Lã gia, tại sao lại để người này phụ trách lãnh quân, đây chỉ là hạng a dua phỉnh nịnh, đức tài không đủ để chế phục người ta, năm xưa khi Tiêu mỗ và Đồ gia bôn tẩu cùng Lã gia, tộc người họ Lã bọn chúng không biết nấp ở chốn nào, giờ đây Lã gia ngồi lên ghế tướng quốc, bọn chúng lại kéo nhau đến, tướng gia lại trọng dụng bọn chúng”.
Hạng Thiếu Long lúc này mới hiểu quan hệ của bọn họ.
Như thế có thể thấy, dưới tay Lã Bất Vi cũng chia thành hai phe phái, một bên là phe phái gia tướng do Đồ Tiên và Tiêu Nguyệt Đàm đứng đầu, bên kia là phe phái của những người trong tộc của Lã Bất Vi bao gồm cả Lã Hùng trong đó. Vì quyền lực mà tranh đấu lẫn nhau.
Khuất Đấu Kỳ, người mà Lã Hùng vừa nhắc đến là một tên thiên tướng, bản thân tuy là người Tần, nhưng là tâm phúc dưới tay Mông Ngao, nhưng uy vọng thì hơn hẳn Lã Hùng.
Những cuộc tranh giành quyền lực đâu đâu cũng có.
Chỉ trong một đoàn sứ tiết nhỏ nhoi có hơn ngàn người này mà tình hình cũng đã rất phức tạp.
Tiêu Nguyệt Đàm hạ giọng nói: “Thiếu Long cớ gì đột nhiên thay đổi lộ trình? Phải chăng sợ Dương Tuyền quân cấu kết với người Hàn, phục kích chúng ta trên đường?”
Hạng Thiếu Long không hề nghĩ đến những vấn đề ở mặt này, cũng biết cuộc nói chuyện bí mật vừa rồi với Lý Tư khiến cho y cảm thấy không thoải mái, thừa cơ nói: “Đây chỉ là một trong những nguyên nhân mà thôi, vừa rồi ta có tìm Lý Tư tiên sinh hỏi y về tình thế nước Tề, sau đó mới phát giác người Tề dễ nói chuyện nhất, nên mới thay đổi chủ ý, quyết định đến nước Tề”.
Tiêu Nguyệt Đàm vui vẻ nói: “Thì ra là như thế, Thiếu Long thật biết dùng người, Lý Tư là kẻ học rộng hiểu nhiều, rõ tình thế của thiên hạ như lòng bàn tay, đáng tiếc làm tướng gia không vui nên vẫn chưa được trọng dụng”.
Rồi mỉm cười nói: “Giờ đây ta mới hiểu Thiếu Long cớ gì chỉ định Lý tiên sinh đi theo”.
Đằng Dực xen vào: “Lã Hùng có đáng tin cậy không?”
Tiêu Nguyệt Đàm thở dài: “Chuyện này rất khó nói, về căn bản thì chẳng có vấn đề gì”.
Ngừng một chốc rồi nói: “Thiếu Long đã là người của chúng ta, ta cũng không e ngại mà nói thẳng ra, việc chọn người đi sứ, đã từng xảy ra tranh cãi, ta và Đồ gia ủng hộ cho Thiếu Long, bọn người trong tộc họ Lã thì chủ trương do Trương Manh, thân đệ của Lã phu nhân đảm trách, chỉ là sau khi tướng gia cân nhắc thì đã nghe theo ý kiến của chúng ta”.
Hạng Thiếu Long thầm nghĩ thà đừng chọn ta thì hay nhất, nhưng giờ đây gạo đã nấu thành cơm, đã vào thế ngồi trên lưng cọp, oán trách chỉ tổ phí sức mà thôi, thở dài rồi cười khổ.
Tiêu Nguyệt Đàm chân thành nói: “Ta và Đồ gia đều biết Thiếu Long coi khinh danh lợi, nhưng hiện giờ chúng ta và bọn người họ Lã do Trương Manh đứng đầu đã đứng vào thế nước với lửa, mong Thiếu Long hãy giúp chúng tôi chống lại bọn chúng”.
Hạng Thiếu Long lúc này mới biết mình đã trở thành người mà phía Đồ Tiên tranh thủ, nên cũng thấy buồn cười.
Ngoài trại bỗng truyền vào tiếng đao kiếm giao nhau và tiếng reo hò, họ cảm thấy ngạc nhiên lắm, cả ba người vén rèm bước ra.
Bãi đất trống trước trại, Kỷ Yên Nhiên đang cùng Mông Điềm dùng mâu đọ chiêu với nhau, trông rất hứng thú.
Còn Ô Đình Phương, Triệu Thiên, Mông Võ, Kinh Tuấn và bọn thân vệ đang đứng một bên reo hò trợ oai.
Kỷ Yên Nhiên đang chiếm được thượng phong, còn Mông Điềm thì đang khó khăn trống đỡ.
Hạng, Đằng đều cảm thấy không ngờ tên tiểu tử mới mười tuổi hơn mà đã ghê gớm đến thế, bất đồ đều đồng thanh khen hay.
Mông Điềm thấy Hạng Thiếu Long đang đứng xem thì vui lắm, đâm liền ba mâu, lấy lại được một ít ưu thế.
Kỷ Yên Nhiên gạt mâu của đối thủ ra, chờ khi đối thủ thất thế thì nàng liền lùi ra, cắp mâu phía sau lưng, cười nói: “Sau này, e rằng Yên Nhiên không phải là đối thủ của Tiểu Điềm nữa!”
Mông Điềm vội vàng thi lễ khiêm nhường, khiến ai nấy đều rất có thiện cảm.
Lúc này Lã Hùng và Khuất Đấu Kỳ bước đến.
Hai người bước tới, đang định nói chuyện thì Hạng Thiếu Long lên tiếng trước, mỉm cười: “Mấy ngày này vẫn chưa có cơ hội nói chuyện với Khuất thiên tướng, mời!”
Rồi xoay người bước vào trong trại.
Khuất Đấu Kỳ hơi ngạc nhiên, bước theo.
Lã Hùng định bước vào thì bị Đằng Dực chặn lại, khách khí nói: “Chuyện Lã tướng quân chuẩn bị đổi đường, chắc đã đâu vào đấy, Thái phó có lệnh, bổn nhân có việc cần thương lượng với tướng quân, hay là hãy vào trại của bổn nhân rồi nói!”
Lã Hùng đành phải bước theo gã.
Chỉ còn lại một mình Tiêu Nguyệt Đàm đang đứng vuốt râu cười.